Hạt mê thi là gì?
Hạt mê thi (Fenugreek) hay Hồ lô ba có phần xa lạ với đa số người Việt Nam nhưng thật ra rất quen thuộc với những bà nội trợ vì thường dùng đến bột “cà ri”. Tại nhiều nơi trên thế giới, mê thi không những được trồng để lấy hạt làm gia vị mà còn được dùng làm rau và làm thuốc trị bệnh. Cây mê thi cũng được trồng thử tại một số địa phương tại Việt Nam.
Vậy mê thi là cây gì và lịch sữ cũng như công dụng của nó như thế nào?
Các tên gọi khác của cây mê thi
Tên Ấn Độ: Mê Thi.
Tên Phạn: Mê Thika
Tên Anh – Mỹ: Fenugreek, Bird’s foot
Tên Pháp: Funugrec
Tên Đức: Bockshornklee
Tên Tây Ban Nha: Alholva
Tên Ý: Fieno Greco
Tên Nhật: Koroha
Tên Hy Lạp: Trigonella foenum-graecum, thuộc họ đậu Fabaceea,
- “Trigonella”: có nghĩa là 3 cạnh, do hình dạng của hoa.
- “Foenum-graecum”: tiếng latinh có nghĩa là rơm Hy lạp: cây đã được dùng để trộn thêm các rơm rạ có phẩm chất kém để tạo mùi thơm. Trước đây tại Hy lạp, fenugreek được trộn vào các rơm rạ bị mốc hay bị hư hỏng do côn trùng phá hoại, giúp rơm trở thành dễ ăn hơn, và hơn nữa trong thiên nhiên trâu bò và ngựa khi đau ốm chỉ chịu ăn mê thi.
Lịch sử về cây mê thi
Mê thi được xem là một trong những cây đầu tiên được nhân loại trồng tại vùng thung lũng sông Nile từ 1000 năm truớc Công Nguyên
Các văn bản tìm được trong các ngôi cổ mộ Ai cập đã mô tả cách nấu nướng mê thi khi dùng làm thực phẩm và cách chế biến cây để làm thuốc (trị nóng sốt). Hạt mê thi khô đã được tìm thấy trong mộ của Tutankhamen. Người Ai cập dùng cây làm một trong các hợp chất để xông hương và để ướp xác
Hạt mê thi cháy khô tìm được tại Tell Halal (Iraq) được định bằng cacbon phóng xạ cho thấy niên đại khoảng 4000 năm (trước Công Nguyên).
Trong lịch sử của người Do Thái, mê thi như là một võ khí chống ngoại xâm: Năm 66-70 (sau Công nguyên,) Hoàng đế La Mã Titus Flavius Vespasian bao vây thành Jerusalem và ra lệnh cho quân sĩ san bằng bức tường thành. Phương thức phòng thủ của dân Jerusalem là đổ nước sôi hay dầu sôi vào quân xâm lấn dùng thang trèo lên mặt thành và theo sử gia Flavius Josephus thì người Do thái đã thêm dầu Mê Thi vào nước sôi để gây tăng thêm sư trơn trợt cho quân La Mã.
Trung Âu: Mê thi được các tu sĩ dòng Benedictins đưa về Trung Âu từ thế kỷ IX.
Trung Hoa: Mê thi được du nhập vào thời nhà Tống (khoảng năm 1057).
Đặc tính thực vật của cây mê thi
Chu kỳ sinh trưởng: Mê Thi thuộc loại có chu kỳ sống ngắn, có thể thu hoạch sau 3-4 tháng gieo trồng và mỗi năm có thể trồng xoay vòng đến 3 lứa.
Cây thuộc loại thảo hằng niên, có thân tròn không lông, mọc thẳng đứng,rễ phát triển.
Chiều cao: 60 – 80cm.
Lá: mọc so le, có mang 3 lá chét (lá phụ) xoan ngược, cuống ngắn 4 – 6 mm, dài 1.5 – 2 cm, rộng 0.5 – 1 cm, mép lá có răng cưa ở phân nửa phần trên, phiến có 4 đôi gân phụ.
Hoa: màu vàng nhạt hay trắng, mọc ở nách lá, đơn độc hay từng đôi. Tràng hoa dài gấp đôi đài hoa.
Cây trổ hoa vào các tháng 4-6 và ra quả trong các tháng 7-8
Quả: hình trụ thẳng, hơi cong, dài 10-12 cm, rộng 4-5 mm, có mỏ nhọn ở đầu, chứa 10 đến 20 hạt.
Hạt: màu nâu sáng, hay vàng-nâu, hình thoi, dẹp, rất cứng (3×4 mm), nhiều cạnh, có mùi thơm
Các nước xuất cảng Mê Thi hiện nay là: Ấn độ, Pháp, Li Băng, Ai Cập và Argentina.
Thành phần hóa học của hạt mê thi
Chất nhày: 2.5 – 45% (gồm các mannogalactans)
Chất đạm: 25 – 30% (các amino acids như choline-4-hydro xyisoleucine, lysine, tryptophan, histidine, arginine, cystine và tyrosine).
Các saponins loại steroid: 1.2-1.5%
Các loại sterols: 65%
Tinh dầu dễ bay hơi: 0.01% .
Dược tính của Mê thi
Mê thi và bệnh tiểu đường
- Thử nghiệm trên chuột
Hạt mê thi sử dụng đơn độc hay dùng phối hợp với vanadate, tạo ra một sự bình thường hóa các men glucose-6-phosphatase và fructose-1,6-biphosphatase trong gan và thận của chuột bị tiểu đường.
Hạt Mê Thi cũng có hoạt tính giúp bình thường hóa hoạt động của men glyoxalase I nơi gan của chuột bị tiểu đường (trích dịch tạp chí: Indian Journal of Expe rimental Biology No: 37-1999).
Hoạt tính hạ đường tăng cao hơn khi dùng dưới dạng phối hợp. Khi cho chuột bình thường và chuột bị gây tiểu đường bằng alloxan dùng hạt Mê Thi ở những liều 2 và 8 g/kg hiệu ứng hạ glucose trong máu xẩy ra rất rõ rệt, hiệu ứng này tùy thuộc vào liều sử dụng (trích dịch tạp chí: Journal of Ethnopharmacology No: 75-2001).
- Các nghiên cứu thử nghiệm hạ đường huyết của hạt mê thi trên những người bệnh tiểu đường tự nguyện
Trong một thử nghiệm lâm sàng có kiểm soát, hoạt tính của 3 chế phẩm từ hạt mê thi: 6 người bình thường (dùng hạt tươi, hạt đun sôi) và 6 bệnh nhân tiểu đường (dùng hạt tươi và hạt nẩy mầm). Kết quả cho thấy hạt tươi và hạt nẩy mầm làm hạ glucose nơi tất cả 12 người và hạt đun sôi không có tác dụng. (Trích dịch tạp chí Journal of Food Science and Techno logy No: 33-1996).
Một thử nghiệm khác trên 21 bệnh nhân tiểu đường ghi nhận liều 15 gram hạt mê thi cho dùng một lần trong bữa ăn gây hạ glucose trong máu, và không gây những thay đổi về nồng độ insulin (trích dịch tạp chí: Nutrition Research No: 16-1996).
- Thử nghiệm dùng hạt mê thi trên 15 người bệnh tiểu đường
Hạt mê thi đã loại chất béo trong 10 ngày, gây hạ glucose trong máu (nhịn ăn đêm trước) và giảm lượng glucose đào thải qua nước tiểu đến 64%. Thử nghiệm này cho rằng cơ chế tạo ra hạ đường trong máu của mê thi có thể do hiệu ứng của chất sơ dinh dưỡng trên sự hâp thụ glucose nơi ruột và do sự cải thiện hoạt tính ngoại vi của insulin (trích dịch các tạp chí Nutrition Research No: 10-1990 và British Journal of Nutri tion No: 97-2007).
Hạt mê thi cũng làm giảm được một số triệu chứng của tiểu đường như khát nước, đi tiểu nhiều lần, yếu mệt và sụt cân.
Hoạt tính chống oxi – hóa của hạt mê thi
Nhiều nghiên cứu trong công nghiệp thực phẩm đã cho thấy hạt Mê Thi có thể hữu hiệu khi dùng làm chất chống oxy-hóa để bảo quản thực phẩm: Trong một thử nghiệm, tiềm năng chống oxy-hóa của hạt Mê Thi có thể so sánh được với các chất kháng oxy tổng hợp như butylated hydroxyanisole và butylated hydroxytoluene ( trích dịch tạp chí: Meat Science No: 57-2001).
Khả năng kháng-oxy của hạt Mê Thi hoạt động rất tốt khi dùng bảo quản thịt heo xay (cà thịt tươi lẫn thịt đông lạnh).
Tác dụng bảo vệ gan của mê thi
Thí nghiệm trên chuột: cho chuột uống thenol 6g/kg mỗi ngày liên tục trong 60 ngày: các triệu chứng hư gan bao gồm các thông số về hoạt động của các men gan, giảm hạ các nhóm sulfohydryl, gia tăng các nhóm carbonyl proteins. Kết quả: Các polyphenols trích từ hạt Mê Thi được nghiên cứu về khả năng bảo vệ gan chống lại tác hại của rượu và mê thi có hoạt tính tương tự như silymarin (dùng làm đối chứng), giúp cải thiện được các thay đổi bệnh lý ở gan gây ra do rượu (trích dịch tạp chí: Cell Biology and Toxicology No: 24-2008).
Nghiên cứu độc tính và liều lượng dùng làm thuốc của mê thi
Độc tính: Mê Thi đã được sử dụng từ lâu đời để làm thực phẩm và không gây ra những phản ứng độc hại nào, các nghiên cứu độc tính cho thấy:
- Trên chuột: cho chuột thử nghiệm ăn liên tục trong 90 ngày liều lượng cao từ 2 – 4 lần các liều dùng trị bệnh, đều không gây tác hại nào đến gan và máu (trích dịch tạp chí: Phytotherapy Research No: 10-1996).
- Người bệnh tiểu đường: người bệnh tiểu đường sử dụng hạt theo liều lượng 25 gram/ngày, trong 24 tuần liên tục. không thấy có sự biến đổi trong các thông số về hoạt động của gan, thận và máu. Tuy nhiên, bệnh nhân tiểu đường, khi dùng thêm mê thi, cũng cần thông báo cho bác sĩ điều trị để tránh tình trạng mức đưởng hạ quá thấp khi dùng chung với các thuốc trị tiểu đường khác. (Trích dịch tạp chí: Nutrition Research No: 16-1996).
Liều lượng sử dụng thông thường của hạt mê thi tán bột: 6 gram/ngày.
Hạt mê thi dưới dạng trà dược: ngâm 0.5 gram mê thi trong 240 ml nước lạnh trong 3 giờ, sau đó lược và hâm nóng lại. Uống hàng ngày giúp ăn ngon miệng và bột nhão đắp bên ngoài da trị xưng da.
Mê thi trong Y học dân gian
Y học cổ truyền Trung Hoa: Mê thi được gọi là Hồ lô bá, có vị đắng, tính ấm có các tác dụng “ôn thận”, tán hàn và chỉ thống. Dùng trị các trường hợp trị tạng thận suy yếu, đau bao tử, đau ruột, sưng chân, thấp gây ra đau khớp khó đi lại.
Y học cồ Hoa Kỳ: Những người di dân đầu tiên đến miền Đất mới, đã dùng hạt Mê Thi làm một phương thuốc giúp điều hòa kinh nguyệt
Y học cổ truyền Ấn Độ:
- Cây non và lá có mùi thơm được dùng làm rau ăn.
- Cây và lá tán thành bột, trộn nước lảm thành khối nhão để đắp trị phỏng và đắp trên da đầu để giúp chống bạc tóc. Lá được dùng uống trị ăn không tiêu và bệnh về mật, nước sắc toàn cây dùng trị bệnh huyết trắng.
- Hạt mê thi dùng làm gia vị chế biến cà ri. Hạt được dùng cho các sản phụ để tăng sữạ. Ngoài ra, hạt mê thi sau khi rang chín, tán thành bột, được dùng để trị kiết lỵ và tại vùng Hymalaya, cho trẻ em dùng để trị sán lãi.
Mê thi được dùng như rau và đồ gia vị
Đọt non của cây mê thi được băm vụn, trộn chung vào các món salad.
Hạt có màu vàng vị đắng, thành phần quan trọng của bột cà ri Ấn Độ.
Đặc điểm dinh dưỡng của hạt mê thi
(trong 100 gram hạt mê thi )
Chất đạm: 23 g
Chất xơ: 10.07 g
Chất béo: 6.41 g
Calcium: 176 mg
Sắt: 33.53 mg
Magie: 191 mg
Photpho: 296 mg
Natri: 67 mg
Kẽm: 2.5mg
Đồng: 1.11 mg
Mangan: 1.23 mg
Vitamin C: 3 mg
Phân phối sản phẩm hạt mê thi
Công ty Cổ phần Lương thực Phương Nam (//gaophuongnam.vn) cung cấp một lượng lớn sản phẩm từ hạt mê thi với nguồn gốc rõ ràng, hàng được đảm bảo đóng gói bao bì đúng tiêu chuẩn bảo sản phẩm. Chúng tôi giao hàng tận nơi và luôn đặt dịch vụ chăm sóc khách hàng lên hàng đầu và với mong muốn mang lại những hiệu quả của nó đến người tiêu dùng một cách cao nhất từ thông tin đến chất lượng.
Giá 1 hộp (trọng lượng 50 gram): 100 000 VNĐ/hộp
Khách hàng mua lượng lớn, chúng tôi sẽ xem xét lại giá ưu đãi.
Chúc quí đọc giả – quí khách có những kiến thức cơ bản hơn về cây mê thi đang dần dần biết đến với những liều thuốc trị bệnh tiểu đường hữu hiệu.
Trong bài viết có tham khảo các tạp chí khoa học (dịch lại) và các website khoa học y học.